Trong suốt vòng đời kinh doanh của doanh nghiệp (“DN”), chuyện bị một hay nhiều khách hàng không trả tiền hàng hóa/dịch vụ đã cung cấp vì nhiều lý do khác nhau thì trước sau gì cũng gặp và không ít trường hợp, tổn thất do các khoản nợ bị “ngâm” liên tục gia tăng sẽ làm suy giảm năng lực cạnh tranh, thậm chí dẫn tới nguy cơ phá sản cho DN. Tuy nhiên, làm thế nào để DN có thể thu được một phần hay toàn bộ số nợ khó đòi một cách nhanh chóng, hiệu quả và ít tốn kém nhất thì không phải DN nào cũng hiểu rõ.
Hiện có một số cách thức thu hồi nợ khó đòi phổ biến như: (i) xóa nợ; (ii) giảm một phần nợ với điều kiện DN con nợ phải trả ngay số nợ còn lại; (iii) bán nợ cho DN chuyên mua bán nợ (factoring); (iv) nhờ dịch vụ thu hồi nợ; (v) thuê luật sư khởi kiện DN con nợ; (vi) yêu cầu tuyên bố phá sản DN con nợ; hay (vii) thuê xã hội đen đòi nợ.
Việc chọn một trong các cách thức này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, chẳng hạn như cơ chế pháp lý cho phép thực hiện, khả năng trả nợ của con nợ, chi phí thu hồi nợ, dòng chảy tiền mặt của DN chủ nợ…. Một sự lựa chọn không hợp lý có thể làm ảnh hưởng đến sự tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, kéo dài thời gian thu hồi nợ và làm phát sinh các chi phí không cần thiết cho việc thu hồi nợ nhưng chưa chắc đã giúp DN thu hồi được toàn bộ số nợ.
Xóa Nợ hay Giảm nợ
Việc xóa nợ nên được cân nhắc nếu DN con nợ không còn khả năng thanh toán ngay cả đối với những khoản nợ có giá trị rất nhỏ mà ước tính chi phí DN chủ nợ phải bỏ ra để thu hồi nợ thường bằng hoặc cao hơn số tiền nợ phải thu hồi.
Đối với những DN con nợ đang gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ hoặc có điều kiện trả nợ nhưng ngần ngại thanh toán do một phần nợ là tiền lãi phát sinh từ việc chậm trả tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc tiền phạt vi phạm hợp đồng, DN chủ nợ có thể xem xét việc giảm nợ một phần cho DN con nợ với điều kiện DN con nợ phải trả ngay một lần số nợ còn lại. Điều này sẽ giúp DN con nợ hợp tác hơn trong việc thanh toán, đồng thời chủ nợ cũng giải phóng được các khoản nợ khó đòi, có thêm nguốn vốn tái đầu tư và tiết kiệm được chi phí và thời gian thu hồi nợ.
Bán nợ
Việc bán nợ cho DN chuyên mua bán nợ có những thuận lợi nhất định. Thứ nhất, vì kinh doanh mua bán nợ DN đã hình thành từ khá sớm ở các nước Châu Âu và do đó những DN trong lĩnh vực này đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý nợ khó đòi của DN.
Thứ hai, việc kinh doanh mua bán nợ DN đã được luật pháp Việt Nam cho phép nên DN chủ nợ không sợ vi phạm pháp luật[1]. Thứ ba, DN mua bán nợ còn giúp cung cấp những nhận định, phân tích một cách toàn diện cũng như xác định những bất thường đối với khoản nợ, từ đó đưa ra khuyến cáo cho DN chủ nợ.
Thứ tư, DN mua bán nợ có thể trả trước thời hạn toàn bộ hoặc một phần các khoản nợ của DN con nợ và mọi rủi ro không thu được đều do DN mua bán nợ gánh chịu. Thứ năm, với đặc thù là DN tài chính chuyên biệt, các DN chuyên mua bán nợ có thể giảm thiểu hoạt động kế toán của DN chủ nợ cũng như bảo đảm thu nợ và xác định các khoản thanh toán cho DN chủ nợ.
Thứ sáu, bằng các cách thức xử lý nợ chuyên nghiệp, chẳng hạn như sử dụng các phần mềm vi tính để nhắc nhở DN con nợ thanh toán thông qua tin nhắn/email/điện thoại một cách tự động và theo lịch đã định sẵn, các DN mua bán nợ sẽ tiết kiệm và rút ngắn thời gian thu hồi nợ và tạo thói quen cho DN con nợ thanh toán đúng hạn. Điểm bất lợi chính là điều kiện và thủ tục để DN mua bán nợ chấp thuận mua nợ từ DN chủ nợ tương đối khắt khe, và tiền hoa hồng, phí thu nợ khá cao, làm cho DN chủ nợ có thể bị lỗ.
Thuê dịch vụ thu hồi nợ
Việc nhờ dịch vụ thu hồi nợ cũng là một cách thức khác mà cũng nên xem xét vì những thuận lợi của nó. Thứ nhất, dịch vụ thu hồi nợ được pháp luật Việt Nam công nhận thông qua việc đã có một số DN hoạt động trong lĩnh vực này được cấp giấy đăng ký kinh doanh chính thức.
Thứ hai, DN cung cấp dịch vụ thu hồi nợ có thể xuất hóa đơn GTGT cho phí dịch vụ của họ nên DN chủ nợ có thể đưa vào chi phí được khấu trừ của mình. Thứ ba, do hiểu được triết lý kinh doanh của DN là sợ mất uy tín với khách hàng nên các DN thu hồi nợ sẽ áp dụng các chiến thuật “mưa dầm thấm lâu” nhưng hợp pháp làm cho DN con nợ mệt mỏi, sợ mất thể diện mà phải trả nợ.
Sau cùng và quan trọng hơn hết là đa số các DN thu hồi nợ thường không thu phí cố định, có thể chỉ nhận một khoản phí xác minh ban đầu rất nhỏ và chỉ thu phí dịch vụ khi thu hồi được nợ nên nếu không thu hồi được nợ thì DN chủ nợ cũng không mất thêm chi phí thu hồi nợ.
Điểm bất lợi chính của việc sử dụng dịch vụ thu hồi nợ là hiện tại, phạm vi hoạt động của DN kinh doanh dịch vụ đòi nợ tương đối hẹp do quy định của pháp luật đối với hoạt động này[2], một số hoạt động chưa được quy định rõ ràng, đồng thời phí dịch vụ của họ khá cao từ 5-35% số nợ thu hồi được và thậm chí trong một trường hợp khó khăn thì phí thu hồi nợ có thể lên đến 50%.
Khởi kiện đòi nợ
Một cách khác mà cũng nên cân nhắc là nhờ luật sư khởi kiện DN con nợ ra tòa án có thẩm quyền để thu hồi nợ. Đây là một biện pháp có tác động mạnh đến tâm lý DN con nợ. Một trong những thuận lợi chính của phương cách này là bằng việc khởi kiện ra tòa, luật sư của DN chủ nợ trong quá trình tố tụng có thể cân nhắc việc yêu cầu tòa án thụ lý áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời mà pháp luật cho phép như: niêm phong hay không cho chuyển dịch tài sản, phong tỏa tài khoản ngân hàng của DN con nợ hay cấm một số người trong ban quản trị của DN con nợ xuất cảnh[3].
Những việc này sẽ tạo áp lực đáng kể lên DN con nợ, đặc biệt là các DN con nợ vẫn đang hoạt động kinh doanh bình thường. Ưu điểm thứ hai là luật sư thường tính phí trên cơ sở cố định và phí thường không quá cao nên nếu số nợ khó đòi mà thu hồi được thì chi phí bỏ ra để thu hồi nợ chỉ ở mức độ vừa phải.
Ưu điểm thứ ba là các luật sư thường hoạt động dưới hình thức các văn phòng luật sư/công ty luật nên có thể xuất hóa đơn GTGT, nên chi phí thuê luật sư có thể đưa vào chi phí hợp lý hợp lệ của DN chủ nợ.
Và ưu điểm sau cùng là vì những người làm việc cho các văn phòng luật sư/công ty luật là những người được đào tạo trong các trường lớp chuyên ngành, có kinh nghiệm chuyên sâu trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp và tố tụng nên họ có thể nắm bắt nhanh chóng hồ sơ, tài liệu có liên quan, hiểu rõ bản chất sự việc, từ đó tiến hành khởi kiện DN con nợ.
Bên cạnh đó, luật sư có thể tư vấn cho DN chủ nợ về mặt pháp luật để đánh giá vụ đòi nợ này có đúng thực chất là một vụ đòi nợ hay có tiềm ẩn việc tranh chấp hợp đồng không. Nếu là tranh chấp hợp đồng thì DN chủ nợ có khả năng sẽ bị DN con nợ phản tố không và khả năng phản tố thành công có cao không.
Những lời khuyên này rất quan trọng cho DN chủ nợ vì nhiều khi DN chủ nợ chưa chắc chắn vụ việc thực chất là đòi nợ và tranh chấp hợp đồng, nên nhiều khi đi kiện đòi nợ đã không thu được nợ mà còn bị tố ngược lại và phải bồi thường hợp đồng cho DN con nợ, cũng như tốn tiền đóng án phí và phí luật sư.
Yêu cầu tuyên bố phá sản DN con nợ
Trong trường hợp số tiền nợ lớn và DN con nợ lại không có nhiều khả năng thanh toán thì việc giảm nợ để DN con nợ trả nhanh số nợ còn lại, bán nợ cho DN chuyên mua bán nợ, nhờ DN cung cấp dịch vụ thu hồi nợ đòi nợ thuê sẽ cho thấy không khả thi vì không ai nhiệt tình muốn tham gia do khả năng thu hồi nợ thấp.
Trong trường hợp này, tốt nhất là nhờ một văn phòng luật sư hay công ty luật chuyên về phá sản DN nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản DN con nợ và cố gắng sớm nhận được quyết định của tòa án tuyên bố phá sản DN con nợ.
Dù biết rằng việc yêu cầu mở thủ tục phá sản DN con nợ sẽ không có nhiều ý nghĩa khi DN con nợ đã không còn khả năng thanh toán nữa hay có nhiều khoản nợ có đảm bảo rồi nhưng DN chủ nợ nên làm vậy dù phải tốn chi phí luật sư vì nó lại có lợi cho DN chủ nợ ở một góc độ khác.
Theo đó, dựa trên bản án của tòa án, DN chủ nợ có thể xin tuyên bố phá sản DN con nợ theo quy định về pháp luật phá sản DN. Khi đó, DN chủ nợ sẽ có cơ hội (dù nhỏ) thu hồi được một phần số nợ khó đòi qua việc tiến hành thủ tục phát mãi tài sản còn lại của DN con nợ theo thủ tục phá sản.
Phần nợ mà không thể thu hồi được qua việc phát mãi tài sản của DN con nợ sẽ được bù đắp thông qua việc sử dụng nguồn dự phòng nợ phải thu khó đòi mà DN chủ nợ đã trích trước vào chi phí DN và phần chênh lệch (nếu có) cũng sẽ được hạch toán vào chi phí quản lý và làm giảm doanh thu chịu thuế của DN chủ nợ.
Trong trường hợp số tiền nợ lớn nhưng DN con nợ lại có khả năng thanh toán dù không chịu trả thì DN chủ nợ cần cân nhắc chọn lựa giữa việc đồng ý giảm nợ để DN con nợ trả nhanh số nợ còn lại, bán nợ cho DN chuyên mua bán nợ, nhờ DN cung cấp dịch vụ thu hồi nợ đòi nợ thuê hay nhờ văn phòng luật sư hay công ty luật khởi kiện ra tòa.
Việc giảm nợ để DN con nợ trả nợ chỉ có thể thực hiện được nếu có thể thấy rõ được thiện chí của DN con nợ, ví dụ như trả một phần nhỏ tiền nợ để bày tỏ thiện chí trả nợ v.v. Nếu không thấy được sự thiện chí này thì DN chủ nợ cần cân nhắc đến các phương pháp khác như đã nêu ở trên.
Nhờ xã hội đen
Còn nếu DN chủ nợ tìm đến giải pháp sau cùng là nhờ đến các băng nhóm xã hội đen thì nên tránh xa vì DN chủ nợ không thể kiểm soát được các hoạt động/hành vi đòi nợ của các băng nhóm được thuê để thực hiện.
Trong trường hợp các đối tượng này bắt cóc, đánh đập, xiết nợ DN con nợ thì DN chủ nợ không những có nguy cơ không thu được tiền nợ khó đòi và tốn kém chi phí cho các băng nhóm xã hội đen mà còn có nguy cơ bị liên đới chịu trách nhiệm dân sự nếu các hành vi đòi nợ vi phạm pháp luật và người đứng đầu DN chủ nợ còn có thể liên đới chịu trách nhiệm hình sự cùng với băng nhóm xã hội đen về các tội như: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác[4] hay Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản[5].
Một vấn đề cũng quan trọng không kém là phí dịch vụ đòi nợ trong trường hợp thuê băng nhóm xã hội đen thực hiện sẽ không được đưa vào chi phí DN và bên cạnh đó còn vô vàn những mối phiền hà khác từ việc sử dụng những đối tượng này.
Nếu bạn cần thêm thông tin để biết liệu chúng tôi có thể hỗ trợ bạn về những vấn đề tranh tụng dịch vụ thu hồi nợ hay không, xin vui lòng liên hệ trực tiếp đến số: +84 (28) 3622 3522 hoặc email cho chúng tôi tại: info@phuoc-associates.com.
[1] Điều 1, Điều 2 Quyết định 1096/2005/QĐ-NHNN của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam
[2] chỉ được gói gọn trong Nghị định số 104/2007/NĐ-CP của Chính Phủ và Thông tư 110/2007/TT-BTC của Bộ Tài Chính
[3] Điều 99, Điều 102 Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự năm 2004
[4] Điều 104 Bộ luật hình sự 1999
[5] Điều 134 Bộ luật hình sự 1999
Mã Download: 6914