Công ty Luật Việt Nam – Phước & Cộng Sự

Luật Cấm, Phạt Rõ Ràng, Khai Khống Vốn Điều Lệ Vẫn Tồn Tại?

Vốn điều lệ được xem là tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp căn cứ vào hình thức góp vốn và loại hình doanh nghiệp[1]. Tuy nhiên, gần đây có một vài doanh nghiệp đã bất chấp rủi ro, “thổi phồng” số vốn điều lệ của mình lên gấp hàng trăm, hàng nghìn lần vì mục đích kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận. Việc khai khống để thổi phồng vốn điều lệ dĩ nhiên là hành vi vi phạm điều cấm của Luật Doanh nghiệp 2020[2]. Theo đó, việc này có thể bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đầu tư hay nếu nặng hơn thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Bài viết này muốn chia sẻ một số lý do tại sao nhiều doanh nghiệp dù biết như thế nhưng vẫn bất chấp pháp luật và vai trò của các cơ quan Nhà nước quản lý doanh nghiệp hiện nay ra sao.

Bất chấp pháp luật để khai khống vốn điều lệ là vì đâu?

Hành vi khai khống vốn điều lệ của doanh nghiệp có thể xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, trong đó, việc tìm kiếm lợi nhuận luôn là một trong nhiều lý do hàng đầu khiến các doanh nghiệp dù biết nhưng vẫn nhắm mắt bỏ qua các quy định của pháp luật có liên quan. Vốn điều lệ của doanh nghiệp được xem là thông tin cơ sở giúp tạo niềm tin cho đối tác, khách hàng khi xem xét hợp tác kinh doanh với doanh nghiệp. Khi giá trị vốn điều lệ được thổi phồng, các doanh  nghiệp có cơ hội lớn trong việc tìm kiếm lợi nhuận từ các hợp đồng, khoản chi trả từ các đối tác lớn hay có thể là thông qua việc thu hút được thêm nhiều khách hàng và nhà đầu tư. Ngoài ra, thoạt nhìn có thể nhận thấy có một quan niệm trên thị trường cho rằng vốn điều lệ càng lớn sẽ đồng nghĩa với địa vị kinh tế của doanh nghiệp trên thị trường càng cao. Ví dụ, vốn chủ sở hữu của một số doanh nghiệp lớn ví dụ như Vingroup (135.853 tỷ đồng), Samsung Electronics Việt Nam (229.498 tỷ đồng), EVN (240.236 tỷ đồng) và Samsung Electronics Thái Nguyên (274.193 tỷ đồng)[3].

Hơn nữa, so với lợi nhuận kiếm được từ việc khai khống vốn điều lệ, rủi ro bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định là không đáng kể. Hành vi khai khống vốn điều lệ có thể bị xử phạt vi phạm hành chính dựa vào giá trị khai khống vốn điều lệ theo 5 mức phạt và có mức phạt tiền tối đa cũng chỉ 100 triệu đồng[4]. Việc giới hạn mức phạt tối đa như thế là một bất cập rõ ràng khi áp dụng chế tài xử phạt hành chính đối với hành vi khai khống vốn điều lệ. Ví dụ, doanh nghiệp khai khống số tiền chênh lệch giữa số vốn thực góp thấp từ 100 triệu đồng đến trên 100 tỷ đồng, mức phạt không chênh lệch nhiều và do đó sẽ không đủ sức răn đe. Vì vậy, các doanh nghiệp sẵn sàng chọn khai khống vốn điều lệ khủng bất chấp việc xem mức phạt trên như là một khoản rủi ro bị xử phạt hành chính được chấp nhận trong kinh doanh so với lợi nhuận kỳ vọng trong tương lai mà họ có thể có được. Trong khi đó, các doanh nghiệp có số vốn dưới 100 tỷ đồng thì thường ẩn mình trong hàng trăm nghìn doanh nghiệp đăng ký mới[5] để tránh khỏi sự ra soát của các cơ quan đăng ký doanh nghiệp như trò chơi trốn tìm may rủi.

Vai trò của các cơ quan quản lý Nhà nước tới đâu

Hành vi khai khống vốn điều lệ là hành vi doanh nghiệp tự kê khai số vốn điều lệ có giá trị vượt quá số vốn thực tế, được xếp vào loại hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện[6] và có thời hiệu xử lý 01 năm được hướng dẫn tại Nghị định 122/2021/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 01/01/2022. Thời điểm để xác định bắt đầu thời hiệu đối với hành vi vi phạm đang thực hiện là thời điểm phát hiện hành vi vi phạm, nhưng nếu hành vi vi phạm đã kết thúc thì thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm được xem là thời điểm bắt đầu[7].

Để làm rõ thêm về quy định xử phạt này được áp dụng cho các doanh nghiệp khi tại thời điểm kiểm tra của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét về giá trị vốn điều lệ thực tế chênh lệch giảm nhiều so với số vốn đã kê khai thì sẽ thuộc vào hành vi khai khống vốn điều lệ. Do đó, ngay cả khi doanh nghiệp đã điều chỉnh lại vốn điều lệ sau thời gian pháp luật quy định buộc phải kê khai đúng số vốn điều lệ thực tế, mà vẫn còn trong thời hạn 01 năm xử phạt thì các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền vẫn có thể ra quyết định xử phạt đối với hành vi kê khai vốn điều lệ nói trên. Như vậy, bằng việc quy định xử phạt như trên đã tạo điều kiện cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có đủ thời gian và điều kiện để rà soát, giám sát và nhắc nhở các doanh nghiệp cần tuân thủ và trung thực trong việc tự kê khai số vốn điều lệ thực tế. Tuy nhiên, trên thực tế thì mỗi quý và mỗi năm có cả hàng nghìn doanh nghiệp được thành lập mới trên cả nước, do đó, các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp mà cụ thể ở đây là Thanh tra Kế hoạch và Đầu tư có thể không mấy mặn mà trong việc rà soát, giám sát để phát hiện ra hành vi sai phạm.

Có nên hình sự hóa việc khai khống vốn điều lệ để tăng sự răn đe?

Gần đây, các cơ quan điều tra có thẩm quyền đã tiến hành rà soát hành vi khai không vốn điều lệ của một số doanh nghiệp mà theo đó, có rất nhiều ý kiến cho rằng hành vi khai khống vốn điều lệ[8] cần được xem xét là có dấu hiệu phạm tội hình sự. Quan điểm ủng hộ cho việc hình sự hóa hành vi khai khống vốn điều lệ là dấu hiệu của tội danh lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản[9]. Bởi lẽ, vốn điều lệ được xem là cam kết của chủ sở hữu doanh nghiệp bằng số vốn điều lệ đăng ký chịu trách nhiệm đối với các bên thứ ba khi phát sinh các trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong khi dấu hiệu định tội có liên quan đến tội danh lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được hiểu là: (i) có hành vi sau khi kêu gọi các nhà đầu tư, người mua thực hiện việc góp vốn, mua trái phiếu doanh nghiệp trong khi chủ sở hữu của doanh nghiệp lại không thực hiên việc góp đủ số vốn trên thực tế; (ii) bằng các thủ đoạn gian dối tinh vi để chiếm đoạt tài sản của nhà đầu tư, người mua trái phiếu, cổ phiếu của doanh nghiệp và doanh nghiệp đã sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp; và (iii) dẫn đến việc không có khả năng trả lại tài sản, hoặc dùng thủ đoạn gian dối để không trả lại tài sản.

Tuy nhiên, theo quan điểm của người viết, việc hình sự hóa hành vi khai khống vốn điều lệ chưa thực sự hợp lý. Thứ nhất, nếu xét đến các yếu tố cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình sự thì hành vi khai khống vốn điều lệ như được phân tích ở trên chưa đáp ứng được yếu tố về mặt chủ quan để cấu thành tội này. Việc lấy lý do dựa trên số vốn điều lệ để giao kết hợp đồng với doanh nghiệp xuất phát từ nhu cầu mong muốn tiềm kiếm lợi nhuận hơn là xuất phát từ ý nghĩ ban đầu rằng sẽ dùng việc khai khống vốn điều lệ này để tạo dựng lòng tin mới người khác và sau đó là chiếm đoạt tài sản. Hơn nữa, khi muốn truy cứu trách nhiệm hình sự với bất kỳ tội danh nào thì nghĩa vụ chứng minh sẽ thuộc là của các cơ quan điều tra có thẩm quyền. Có thể thấy, việc đi chứng minh yếu tố về mặt chủ quan, ý chí của doanh nghiệp là điều hết sức khó khăn và dường như là không thể. Thứ hai, theo quy định của pháp luật hình sự, các tội danh chẳng hạn như lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ đề cập đến trách nhiệm hình sự của cá nhân mà theo đó cá nhân có thể bị xử phạt tiền và phạt tù với mức phạt lên đến 20 năm tù. Tuy nhiên, hành vi khai khống vốn điều lệ là hành vi của pháp nhân, vì thế, việc hình sự hóa hành vi khai khống vốn điều lệ đối với hành vi được thực hiện bởi pháp nhân là chưa thực sự hợp lý. Bên cạnh đó, việc xem xét hành vi vi phạm hành chính như hành vi khai khống vốn điều lệ là một trong những dấu hiệu định tội trong pháp luật hình sự có thể gây ra sự thiếu sự minh bạch và tăng tính tùy tiện trong việc điều tra kết tội của phía cơ quan điều tra.

Kết luận

Tóm lại, khai khống vốn điều lệ của doanh nghiệp là một hành vi phạm pháp luật và các chủ sở hữu doanh nghiệp không nên mạo hiểm bất chấp rủi ro để thực hiện. Các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền có vai trò rất quan trọng trong việc rà soát việc đăng ký vốn điều lệ của doanh nghiệp khi phát hiện có dấu hiệu bất thường trong việc kê khai vốn điều lệ. Hơn thế nữa, các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền cũng cần thường xuyên rà soát, xử phạt các doanh nghiệp có hành vi khai khống vốn điều lệ một cách thường xuyên để tạo tính răn đe trong cộng đồng doanh nghiệp. Ngoài ra, thông qua bài viết này tác giả muốn đưa ra kiến nghị để các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền xem xét phối hợp với nhau để sớm đưa ra các đề xuất điều chỉnh phù hợp và sớm ngăn ngừa, kiểm soát hành vi kê khai khống vốn điều lệ theo đúng quy định của pháp luật. Tác giả đồng tình với việc khuyến khích huy động vốn hợp pháp trong doanh nghiệp và tin rằng việc kê khai đúng số vốn điều lệ của doanh nghiệp sẽ là động lực để thúc đẩy và xây dựng một thị trường kinh doanh minh bạch và tiến bộ hơn.

[1] Điều 4.34 Luật Doanh nghiệp 2020

[2] Điều 47 Nghị định 122/2021/NĐ-CP

[3] Số liệu từ được tính đến hết năm 2020 theo đăng ký công bố trên sở giao dịch chứng khoán.

[4] Điều 4.1 (c) Luật Doanh nghiệp 2020

[5] Báo cáo tổng cục thống kê doanh nghiệp đăng ký thành lập mới 7 tháng năm 2022.

[6] Điều 5.2 Nghị định 122/2021/NĐ-CP

[7] Điều 5.3 Nghị định 122/2021/NĐ-CP

[8] Ông Trịnh Văn Quyết nâng khống vốn điều lệ FLC Faros từ 1,5 tỉ lên… 4.300 tỉ – Tuổi Trẻ Online (tuoitre.vn)

[9] Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 và Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2017.

Summary
Article Name
Luật Cấm, Phạt Rõ Ràng, Khai Khống Vốn Điều Lệ Vẫn Tồn Tại?
Description
Vốn điều lệ được xem là tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp căn cứ vào hình thức góp vốn và loại hình doanh nghiệp[1]. Tuy nhiên, gần đây có một vài doanh nghiệp