Công ty Luật Việt Nam – Phước & Cộng Sự

PHÂN TÍCH ÁN LỆ VỀ TRANH CHẤP CÔNG NỢ THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

Trong hoạt động kinh doanh và thu hồi công nợ thương mại, không ít những trường hợp bên mua đã thanh toán tiền hay đặt cọc tiền hàng nhưng bên bán lại vi phạm nghĩa vụ giao nhận hàng hóa cũng như hoàn trả lại số tiền đã nhận. Theo đó, khi đòi hoàn trả số tiền bên bán đã nhận, bên mua liệu có quyền yêu cầu bên bán thanh toán số tiền tương ứng với tiền lãi phát sinh tính trên số tiền ban đầu. Hay nói cách khác, trong quá trình thu hồi công nợ, bên thu hồi nợ có quyền yêu cầu trả thêm khoản tiền lãi phát sinh tính trên khoản công nợ này. Bài viết dưới đây sẽ “Phân Tích Án Lệ Nổi Bật Về Tranh Chấp Công Nợ Thương Mại Tại Việt Nam” theo Án lệ số 09/2016/AL nhằm đưa ra góc nhìn từ quan điểm Tòa án tại Việt Nam cũng như việc áp dụng tương tự nội dung của án lệ vào các tình huống thực tiễn.

Công nợ thương mại tại Việt Nam

Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, việc nợ và thanh toán nợ giữa các bên tham gia vào hoạt động thương mại là điều vốn dĩ rất bình thường. Theo đó, dễ thấy nhất là hoạt động công nợ được hiểu là nghĩa vụ thanh toán một khoản tiền, tài sản của bên nợ cho bên chủ nợ. Công nợ không chỉ hình thành từ quan hệ cho vay thông thường, mà trong bối cảnh kinh tế doanh nghiệp thì các khoản thanh toán từ hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ, lao động,… nếu chưa được thanh toán đầy đủ đề có thể là công nợ của doanh nghiệp.

Việc xác định công nợ thường dựa trên thỏa thuận, hợp đồng giữa các bên cùng các văn bản, chứng từ là bằng chứng về việc chủ nợ đã hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng dẫn đến phát sinh nghĩa vụ thanh toán của bên nợ. Ví dụ như doanh nghiệp A nhận gia công giày dép cho bên B, sau đó, bên A đã hoàn thành việc giao sản phẩm theo đặt hàng từ bên B, từ đó phát sinh nghĩa vụ thanh toán của bên B. Trường hợp bên B chưa thanh toán do quy định của hợp đồng hoặc do chậm thanh toán thì khoản tiền bên B cần thanh toán cho doanh nghiệp A chính là công nợ của doanh nghiệp A.

Tranh chấp công nợ thương mại tại Việt Nam

Trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp phát sinh từ công nợ doanh nghiệp, đặc biệt là trong các hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố bên mua thanh toán tiền hàng trước hoặc cọc trước một khoản tiền để nhận được hàng hóa, sau đó được bên bán hoàn lại tiền cọc thường xảy ra nhiều tranh chấp giữa các bên. Theo đó, việc bên bán có nghĩa vụ phải hoàn trả đầy đủ tiền cọc, tiền thanh toán cho bên mua, ngoài ra nếu bên bán trả chậm so với thỏa thuận thì có phải trả số tiền lãi phát sinh từ số tiền này hay không vẫn là một vấn đề tranh chấp nhức nhối trên thực tế.

Theo quy định của pháp luật thương mại, bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay tiền thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác có thể bị yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường[1]. Tuy nhiên, trường hợp của bên mua đã đặt cọc hoặc thanh toán trước tiền nhưng bên mua lại chậm trễ trong thực hiện nghĩa vụ mà khoản tiền này đáng ra đã được hoàn trả cho bên mua để tiếp tục xoay vòng trong tài chính doanh nghiệp. Có thể thấy, trường hợp thực tiễn này không nằm trong phạm vi luật điều chỉnh thì có làm phát sinh lãi chậm trả với bên mua đã trả tiền trước. Chính vì thế, Án lệ số 09/2016/AL của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã đưa ra câu trả lời thỏa đáng cho thắc mắc của doanh nghiệp.

Án lệ số 09/2016/AL

Án lệ 09/2016/AL có nguồn án lệ là Quyết định giám đốc thẩm số 07/2013/KDTM ngày 15/03/2023 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa” giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần thép Việt Ý (“Công ty Việt Ý”) với bị đơn là Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên (“Công ty Hưng Yên”).

Nội dung chính của vụ tranh chấp: Công ty Việt Ý đã ký 04 Hợp đồng kinh tế với Công ty Hưng Yên, do Công ty Hưng Yên vi phạm nghĩa vụ giao hàng theo hợp đồng nên nguyên đơn đã khởi kiện yêu cầu thanh toán và bồi thường thiệt hại, bao gồm số tiền lãi quá hạn từ số tiền Công ty Hưng Yên đã ứng trước là 376.145.700 đồng. Hồi đồng xét xử sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, tuy nhiên bản án phúc thẩm đã sớm bác bỏ các yêu cầu này. Sau khi Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã có công văn đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét lại bản án phúc thẩm. Nội dung của án lệ bao gồm phần nhận định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao rằng: Số tiền ứng trước mà không nhận được hàng tuy được áp dụng Điều 306 Luật Thương mại 2005 nhưng lại xác định mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước công bố là không đúng. Trường hợp này, Tòa án cần lấy mức lãi suất quá hạn trung bình của ít nhất ba Ngân hàng tại địa phương để tính tiền lãi do chậm thanh toán.

Từ nội dung của án lệ số 09/2016/AL đến việc áp dụng trên thực tiễn các tranh chấp công nợ thương mại có tính chất tương tự, tuy đã có lời giải, nhưng bởi giới hạn phạm vi và tính cụ thể nhất định của án lệ, doanh nghiệp cần phải lưu ý và áp dụng phù hợp khi áp dụng yêu cầu lãi chậm trả với khoản tiền ứng trước, khoản tiền cọc đã trả theo hợp đồng với bên cung ứng, bên bán hàng hóa, dịch vụ.

Phân tích và áp dụng án lệ số 09/2016/AL

Đặc điểm của tiền lãi chậm trả theo án lệ số 09/2016/AL

Khi phân tích cụ thể bối cảnh cũng như nhận định của Hội đồng xét xử, doanh nghiệp khi áp dụng với các tranh chấp công nợ cần phải đặc biệt lưu ý các đặc điểm như sau:

Khoản tiền làm phát sinh lãi chậm trả: Là tiền hoàn trả do không thực hiện đúng hợp đồng[2]. Bao gồm cả tiền cọc, tiền ứng trước, tiền trả theo hợp đồng do bên mua không nhận được hàng hóa, dịch vụ đã cam kết đúng hạn.

Khoản tiền không được án lệ cho là làm phát sinh làm lãi chậm trả: Tiền phạt vi phạm hợp đồng các bên đã giao kết[3], tiền bồi thường do vi phạm hợp đồng[4].

Mức lãi suất để tính tiền lãi chậm trả: Trong trường hợp tranh chấp, Tòa án có thể mức lãi suất quá hạn trung bình[5] của ít nhất ba ngân hàng địa phương (bao gồm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – Agribank, Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam – Vietcombank, Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – VietinBank,…) để tính tiền lãi.

Thời điểm xác định mức lãi: Án lệ xác định thời điểm lấy mức lãi suát là “thời điểm thanh toán (xét xử sơ thẩm)”, tuy nhiên việc xác định cũng được quyết định bởi tòa án và pháp luật tại thời điểm xác định.

Áp dụng án lệ số 09/2016/AL

Có thể thấy, án lệ số 09/2016/AL là câu trả lời cho câu hỏi đã tồn tại từ Luật Thương mại năm 2005 về việc áp dụng lãi chậm trả không chỉ với bên có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng mà còn với bên có nghĩa vụ giao hàng trong trường hợp đã nhận được tiền cọc, tiền ứng trước, tiền trả trước. Điều này tạo ra sự công bằng giữa các bên trong hoạt động thương mại cũng như tạo một cơ sở để các bên xác định số tiền lãi chậm trả.

Trong hoạt động thu hồi nợ công của doanh nghiệp, Án lệ số 09/2016/AL có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo doanh nghiệp thu hồi nợ công một cách hiệu quả, đúng hạn và được bồi thường đúng với thiệt hại xảy ra. Doanh nghiệp có thêm một công cụ hiệu quả, được đảm bảo bằng việc xét xử tương tự của Tòa án nếu có tranh chấp xảy ra. Nghĩa là chủ nợ và bên nợ hoàn toàn nhận biết được rủi ro trả lãi chậm trả với số tiền đã nhận trước mà không cần phải thỏa thuận trong hợp đồng giữa các bên. Từ đó mà mối quan hệ đối tác, mua bán giữa doanh nghiệp và các bên trong hoạt động thương mại trở nên thông suốt, hiệu quả mà vẫn đảm bảo chế tài xử phạt nếu có hành vi vi phạm.

Tóm lại, mặc dù án lệ số 09/2016/AL được trích từ một vụ tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, tuy nhiên đã có nhiều Tòa án áp dụng án lệ này trong nhiều vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại khác. Chính vì thế, đối với hoạt động thu hồi công nợ của doanh nghiệp, Án lệ số 09/2016/AL sẽ cực kì hiệu quả đến áp dụng với các đối tác, khách hàng, khách nợ mà không cần phải thỏa thuận trước. Điều đó sẽ giúp hoạt động thu hồi nợ diễn ra hiệu quả hơn, đặc biệt là khi áp dụng các phương thức khởi kiện tại tòa án hoặc khởi kiện trọng tài theo thỏa thuận của các bên. Tuy vậy, Án lệ số 09/2016/AL cũng bị giới hạn bởi quyền áp dụng án lệ còn chưa thống nhất giữa các tòa án hiện nay. Doanh nghiệp chỉ nên xem việc tính lãi chậm trả với khách nợ khi không còn cách nào khác để thu hồi nợ của doanh nghiệp và buộc phải khởi kiện tại tòa án, trọng tài.

Trên đây là nội dung khái quát liên quan đến Phân Tích Án Lệ Nổi Bật Về Tranh Chấp Công Nợ Thương Mại Tại Việt NamPhước và Các Cộng Sự chia sẻ đến bạn đọc. Nếu Quý khách hàng gặp bất kỳ khó khăn nào liên quan đến lĩnh vực pháp lý, vui lòng liên hệ chúng tôi. Phước và Các Cộng Sự là một công ty luật được thành lập tại Việt Nam và hiện có gần 100 thành viên đang làm việc tại ba văn phòng Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng. Phước và Các Cộng Sự cũng được đánh giá là một trong những công ty luật có đội ngũ nhân viên chuyên sâu trong lĩnh vực pháp lý hàng đầu tại Việt Nam mà có các lĩnh vực hành nghề được đánh giá đứng đầu trên thị trường pháp lý như Lao động và Việc làm, Thuế, Mua bán và Sáp nhập, Tranh tụng. Chúng tôi tự tin là một trong những Công ty Luật cung cấp dịch vụ pháp lý tốt nhất đến Quý khách hàng.

[1] Điều 306 Luật Thương mại 2005

[2] Điều 306 Luật Thương mại 2005

[3] Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015

[4] Điều 13 và Điều 360 Bộ luật Dân sự 2015

[5] Điều 306 Luật Thương mại 2005

Summary
Article Name
PHÂN TÍCH ÁN LỆ VỀ TRANH CHẤP CÔNG NỢ THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
Description
Trong hoạt động kinh doanh và thu hồi công nợ thương mại, không ít những trường hợp bên mua đã thanh toán tiền hay đặt cọc tiền hàng nhưng b