Theo pháp luật Việt Nam, có hai loại thủ tục để xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó là thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm. Tái thẩm là một thủ tục đặc biệt của tố tụng dân sự, trong đó, tòa án có thẩm quyền kiểm tra tính hợp pháp của bán án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi kháng nghị. Tuy nhiên, việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục này là dựa trên cơ sở phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án chứ không phải trên cơ sở phát hiện bản án có sự sai phạm nghiêm trọng về trình tự thủ tục hay việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ án.
Khái niệm và đặc điểm của tái thẩm trong tố tụng dân sự:
Khái niệm
Tái thẩm là thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đó mà Tòa án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó.
Như vậy, nhằm đảm bảo sự thật của vụ án được xác định khách quan, toàn diện và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của đương sự, pháp luật đã quy định thủ tục tái thẩm để xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Vì là thủ tục xét lại nội dung bản án, quyết định bị kháng nghị nên tái thẩm có những đặc điểm khác biệt hơn so với hai cấp xét xử sở thẩm và phúc thẩm.
Đặc điểm:
- Thứ nhất, đối tượng của tái thẩm là bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
Về nguyên tắc, bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án phải được thi hành. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, vẫn có những bản án, quyết định có hiệu lực nhưng không phù hợp với sự thật khách quan bởi có sự xuất hiện của các tình tiết mới mà trước đó Tòa án và đương sự không biết hoặc không thể biết. Do đó, pháp luật đã quy định thủ tục tái thẩm để xem xét lại những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật khi phái hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án.
- Thứ hai, căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục tái thẩm là dựa trên cơ sở mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ ăn chứ không phải trên cơ sở phát hiện được sai làm, vi phạm pháp luật của Tòa án trong việc giải quyết vụ án. Theo đó, bốn căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bao gồm:
- Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án;
- Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;
- Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật;
- Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ.
- Thứ ba, tái thẩm phải được dựa trên kháng nghị của người có thẩm quyền
Căn cứ theo quy định tại Điều 354 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bao gồm:
- Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao và bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
Không chỉ đương sự mà bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào khác, nếu phát hiện có tình tiết mới của vụ án đều có quyền thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị nêu trên biết và xác minh.
- Thứ tư, phạm vi tái thẩm chỉ giới hạn trong phạm vi của nội dung kháng nghị
Hội đồng xét xử tái thẩm chỉ xem xét lại phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử tái thẩm có quyền xem xét phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị hoặc không liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị, nếu phần nội dung đó xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án.
Những vấn đề cần lưu ý khi kháng nghị Tái Thẩm:
Tình tiết mới về Tái thẩm trong tố tụng dân sự
Một tình tiết được xem là tình tiết mới nếu tồn tại trước khi Tòa án ra bản án, quyết định và được phát hiện sau khi bản án, quyết định ấy có hiệu lực pháp luật. Sau đó, cần thiết phải xem xét tình tiết đó có ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hay không. Như vậy, tình tiết mới phải có sự ảnh hưởng đến nội dung bản án, quyết định mới được coi là căn cứ để thực hiện thủ tục tái thẩm. Khi xác định những tình tiết mới được phát hiện là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, cần lưu ý các vấn đề sau đây:
- Tình tiết mới được phát hiện phải là tình tiết đã có vào lúc Tòa án giải quyết vụ án mà Tòa án và đương sự đã không thể biết được. Những tình tiết mới phát sinh sau khi Tòa án giải quyết vụ án thì không phải là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, nhưng có thể là căn cứ để khởi kiện một vụ án khác.
- Tình tiết mới được phát hiện phải là những tình tiết quan trọng, liên quan đến vụ án, làm thay đổi cơ bản nội dung vụ án, làm cho bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không hợp pháp, không có căn cứ. Đối với những tình tiết tuy mới được phát hiện nhưng không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật giữa các đương sự thì cũng không là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
- Những tình tiết đã có sẵn trong hồ sơ vụ án, Tòa án không đánh giá sử dụng hoặc những tình tiết đã vào lúc Tòa án giải quyết vụ án nhưng do sai lầm nên Tòa án không phát hiện được, không yêu cầu đương sự cung cấp thì không được coi là tình tiết mới.
Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm:
Để đảm bảo tính ổn định của bản án, quyết định của Tòa án và việc xem xét lại những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được kịp thời, hiệu quả và sớm khác phục được những sai sót, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì việc kháng nghị cần được tiến hành trong một thời hạn nhất định. Theo đó, thời hạn kháng nghị tái thẩm là một năm kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Như vậy, cần lưu ý rằng, thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm không phải là ngày đương sự hay cơ quan, tổ chức phát hiện được căn cứ kháng nghị mà là ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được những căn cứ này.
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử tái thẩm
Do tính chất của thủ tục tái thẩm là phát hiện tình tiết mới dẫn đến làm thay đổi cơ bản nội dung vụ án nên cần phải xét xử lại vụ án để đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, khác với Hội đồng xét xử giám đốc thẩm thẩm, Hội đồng xét xử tái thẩm không có quyền sửa hay hủy một phần bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Nếu xét thấy nội dung kháng nghị là có căn cứ, Hội đồng xét xử tái thẩm có thể (i) hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc (ii) hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án.
Việc xác định một tình tiết nào đó có phải là tình tiết mới trong vụ án hay không sẽ phụ thuộc vào việc nghiên cứu, xác minh làm rõ của người có thẩm quyền kháng nghị. Từ đó, họ sẽ ra quyết định có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm hay không. Do đó, để đảm bảo được tính khách quan về việc có căn cứ kháng nghị theo thủ tục Tái thẩm hay không, cần phải có cơ chế phối hợp giữa những người có thẩm quyền kháng nghị.
Trên đây là nội dung khái quát liên quan đến thủ tục Tái thẩm trong tố tụng dân sự và những vấn đề cần lưu ý khi kháng nghị tái thẩm mà Phước và Các Cộng Sự chia sẻ đến bạn đọc. Nếu Quý khách hàng gặp bất kỳ khó khăn nào liên quan đến lĩnh vực pháp lý, vui lòng liên hệ chúng tôi. Phước và Các Cộng Sự là một công ty luật được thành lập tại Việt Nam và hiện có gần 100 thành viên đang làm việc tại ba văn phòng Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng. Phước và Các Cộng Sự cũng được đánh giá là một trong những công ty luật có đội ngũ nhân viên chuyên sâu trong lĩnh vực pháp lý hàng đầu tại Việt Nam mà có các lĩnh vực hành nghề được đánh giá đứng đầu trên thị trường pháp lý như Lao động và Việc làm, Thuế, Mua bán và Sáp nhập, Tranh tụng. Chúng tôi tự tin là một trong những Công ty Luật cung cấp dịch vụ pháp lý tốt nhất đến Quý khách hàng.